Làm bằng đại học tại TPHCM : chuyên cung cấp các loại bằng uy tín và chất lượng như: nhận làm bằng tiến sĩ, nhận làm bằng đại học, bằng cao đẳng, bằng trung cấp và bằng cấp 3 giá rẻ với chất lượng phôi tem chuẩn của BGD&ĐT.
Mọi chi tiết xin liên hệ cho MR.PHONG qua:
sdt HOTLINE 0906962173 hoặc gởi mail qua hộp thư
Gmail: [email protected] .
Chúng tôi là một trong những cơ sở làm bằng đại học tại tphcm có uy tín và sản phẩm với chất lượng bằng đại học phôi thật 100% của bộ GD&DT , tem 7 màu chống hàng giả.....tất cả các sản phẩm như: làm bằng đại học, lam bang cao dang, làm bằng trung cấp, làm bằng cấp 3 và các loại chứng chỉ tin học, ngoại ngữ ABC, Toeic.....v.v.v.......đều là phôi tem thật của bộ GD&DT ban hành.
Giáo dục đại học là gì?
Giáo dục đại học bao gồm các hình thức giáo dục diễn ra ở các cơ sở học tập bậc sau trung học, cuối khóa học thường được trao văn bằng học thuật hoặc cấp chứng chỉ. Các cơ sở giáo dục đại học không chỉ bao gồm các trường đại học và viện đại học mà còn các trường chuyên nghiệp, trường sư phạm, trường cao đẳng, trường đại học công lập và tư thục hệ hai năm, và viện kỹ thuật. Điều kiện nhập học căn bản đối với hầu hết các cơ sở giáo dục đại học là phải hoàn thành giáo dục trung học, và tuổi nhập học thông thường là khoảng 18 tuổi.
Giáo dục đại học bao gồm các hoạt động giảng dạy, nghiên cứu, thực tập (như trong các trường y khoa và nha khoa), và phụng sự xã hội của các cơ sở giáo dục đại học. Các hình thức giáo dục đại học bao gồm: giáo dục tổng quát (general education), thường bao gồm đáng kể những yếu tố lý thuyết và trừu tượng cùng với những khía cạnh ứng dụng; giáo dục chú trọng đến các ngành khai phóng (liberal arts education), bao gồm các ngành nhân văn, khoa học, nghệ thuật; giáo dục mang tính huấn nghệ (vocational education), kết hợp cả việc giảng dạy lý thuyết lẫn những kỹ năng thực hành; giáo dục chuyên nghiệp (professional education), như trong các ngành kiến trúc, kinh doanh, luật, y khoa, v.v...
Ở nhiều quốc gia phát triển, có tới 50 phần trăm dân số theo học trong các cơ sở giáo dục đại học. Giáo dục đại học do đó rất quan trọng đối với kinh tế quốc gia, với tư cách là một ngành kinh tế và là nơi giáo dục và đào tạo nhân lực cho phần còn lại của nền kinh tế. Những người theo học đại học thường kiếm được mức lương cao hơn và ít có khả năng bị thất nghiệp hơn so với những người có học vấn thấp hơn.
Các chính thể độc lập ở Việt Nam từ thế kỷ 20 nói chung đều nhấn mạnh đến công tác giáo dục và quyền được giáo dục của người dân, mặc dù triết lý giáo dục, mục tiêu giáo dục, và cách tổ chức thực hiện có khác nhau.
Điều này thể hiện trong các tuyên bố của chính phủ Trần Trọng Kim thời Đế quốc Việt Nam,và trong các bản hiến pháp của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1946 và 1959), Việt Nam Cộng hòa (1956 và 1967), và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1980 và 1992). Riêng Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa còn nói rõ "nền giáo dục đại học được tự trị."
Năm 1975, sau chiến tranh, tất cả các cơ sở giáo dục đại học tư thục từng hoạt động ở miền Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa bị giải thể, các cơ sở giáo dục đại học công lập bị giải thể hoặc bị chia ra hay sắp xếp lại theo mô hình phân tán ngành học của Liên Xô; quyền tự trị đại học bị bãi bỏ.
Giáo dục Việt Nam dưới các chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, gồm cả giáo dục đại học, bị chính trị hóa, và hoàn toàn nằm dưới sự quản lý của nhà nước và Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều 36 Hiến pháp Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1992) quy định "nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử và hệ thống văn bằng.
Giáo dục đại học Việt Nam ở miền Bắc trước 1975 và ở cả nước sau 1975 tuân theo mô hình bao cấp giống như ở các nước xã hội chủ nghĩa khác. Hàng năm nhà nước phân bổ chỉ tiêu tuyển sinh cho các cơ sở giáo dục đại học, căn cứ vào tính toán nhu cầu của các cơ quan và các địa phương.
Căn cứ vào chỉ tiêu đó, ngân sách được phân bổ cho các bộ chủ quản, rồi các bộ rót tiền xuống cho các cơ sở giáo dục do mình quản lý. Sinh viên ra trường được nhà nước phân công công việc.
Tình hình thay đổi kể từ năm 1987, khi những lĩnh vực trước đây thuộc khu vực công bắt đầu do "các thành phần kinh tế" khác đảm trách; biên chế không còn nhu cầu và sinh viên ra trường không có việc làm vì không còn được phân công về các cơ quan nhà nước. Điều này đã dẫn đến việc các cơ sở giáo dục đại học có nguy cơ tan rã, do "sinh viên không muốn học, thầy cô không muốn dạy".
Mùa hè năm 1987, Bộ Đại học và Trung học Chuyên nghiệp triệu tập cáchiệu trưởng và bí thư Đảng ủy các trường đại học về dự một hội nghị ở Nha Trang. Hội nghị đã thảo luận kế hoạch cải cách bao gồm bốn tiền đề đào tạo: Đào tạo không chỉ cho các cơ quan nhà nước mà còn cho cả các thành phần kinh tế; đào tạo theo dự báo về yêu cầu nhân lực trong tương lai; đào tạo phục vụ nhu cầu học tập của người dân, không kèm trách nhiệm phân công, sinh viên tự tìm việc làm; đào tạo đa dạng, có cả những loại hình đào tạo phi chính quy, không chỉ bằng ngân sách nhà nước mà còn thu học phí. Cũng trong thời kỳ này, chính quyền Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam bắt đầu sửa đổi chính sách phân loại "13 hạng thanh niên" trong tuyển sinh.
Giáo dục đại học Việt Nam trải qua chuyển biến lớn vào đầu thập niên 1990 với sự ra đời của loại hình cơ sở giáo dục đại học được gọi là "đại học",gấn giống mô hình viện đại học hay university; mỗi "đại học" được thành lập trên cơ sở sáp nhập một số trường đại học đơn ngành đơn lĩnh vực. Ngày 18 tháng 6 năm 2012, Quốc hội lần đầu tiên thông qua Luật Giáo dục Đại học, đưa ra "quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ sở giáo dục đại học, hoạt động đào tạo, hoạt động khoa học và công nghệ, hoạt động hợp tác quốc tế, bảo đảm chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục đại học, giảng viên, người học, tài chính, tài sản của cơ sở giáo dục đại học và quản lý nhà nước về giáo dục đại học.
Tình trạng giáo dục hiện thời
Theo TS Phạm Thị Ly (ĐH Quốc gia TP.HCM), mặc dù tỉ lệ sinh viên vào ĐH còn thấp, đậu cử nhân ra trường vẫn thất nghiệp.
Tuy nhiên, mặc dù nhiều cử nhân thất nghiệp, các doanh nghiệp vẫn thiếu người. Điều này cho thấy đang có một khoảng cách khá xa giữa những gì các trường đang dạy và những gì xã hội thật sự cần. Cử nhân thất nghiệp do nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến chất lượng đào tạo có vấn đề, và do một nguyên nhân sâu xa hơn: chính sách sử dụng người tài. Việc số người vào đại học tuy ít (so với các nước khu vực, Số liệu thống kê tại VN cho thấy chỉ có khoảng 24% thanh niên từ 18 - 24 tuổi được tiếp cận giáo dục ĐH, trong khi con số này ở những nước như Thái Lan, Malaysia là 50 - 60%.) mà lại còn giảm là do việc có những người học hành không ra gì vẫn có cương vị cao trong xã hội đã phá hủy hết động lực học tập của người trẻ. Ngoài ra, học hộ, thi thuê, bằng giả, cũng là những thứ đã phá tan giá trị của tấm bằng đại học.
Mô hình các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam
Danh sách các cơ sở giáo dục đại học tại Việt Nam
Các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam có các tên gọi: trường đại học, trường đại học bách khoa, trường đại học tổng hợp, trường đại học cộng đồng, viện đại học, viện đại học bách khoa, đại học, đại học quốc gia, học viện, nhạc viện, trường cao đẳng, trường cao đẳng cộng đồng, v.v... Trong ngôn ngữ hàng ngày, "trường đại học" và "viện đại học" thường được gọi ngắn gọn hay thân mật là "đại học", mặc dù "đại học" là một loại hình cơ sở riêng biệt; về những nghĩa khác của "đại học",
Có nên làm bằng đại học giả hay không?
Trước tiên chúng tôi xin đặc biệt giới thiệu đên các bạn có nhu cầu và đang quan tâm đến vấn đề làm bằng đại học giả về chất liệu phôi thật, tem 7 màu có cánh của BGD, độ uy tín của cơ sở làm bằng đại học www.lambangdaihoc247.com có đảm bảo không? Khi cầm tấm bằng đại học giả của chúng tôi làm ra thì có thể nhận ra được giữa bằng thật và bằng giả ra sao không?
Xin cam kết với các bạn rằng chúng tôi cam kết đúng chất lượng phôi thật 100%, tem 7 màu có cánh của BGD hiện hành, bằng mắt thường không thể nào phân biệt được, giữa bằng đại học thật và bằng đại học giả của chúng tôi làm ra chỉ khác nhau ở điểm là bằng đại học thật thì có hồ sơ gốc lưu tại trường còn bằng giả thì không có hồ sơ lưu (thực tế: thì chỉ đi học mới có hồ sơ gốc tại trường).
Chúng tôi có các dịch vụ lam bang dai học như sau:
Làm bằng Đại Học Quốc Gia (ĐH Bách Khoa)
Làm bằng Đại Học Chính Quy (ĐH Tại Chức)
Làm bằng Cao Đẳng (CĐ Liên Thông)
Làm bằng Trung cấp (TC Nghề)
Làm bằng THPT (cấp III)
Làm bằngTHPT (cấp III)
Làm Chứng chỉ TOEIC quốc tế
Làm Chứng chỉ Ngoại Ngữ (A,B,C)
Chứng chỉ Tin Học trình độ (A,B,C)
Giấy chứng nhận tốt nghiệp tạm thời
Xác nhận sinh viên hoãn nghĩa vụ
Bảng điểm các trường
Ngoài ra dịch vụ lam bang dai hoc còn làm các chứng chỉ và nhiều văn bằng khác:
– Nếu bạn muốn làm bằng Toeic thì bạn cần cung cấp cho chúng tôi số Chứng minh nhân dân.
– Những tấm bằng từ trước năm 2009 thì nên lưu ý : Cần cung cấp thêm 1 tấm ảnh thẻ 3×4 thời điểm năm tốt nghiệp.
– Những tấm bằng từ năm 2010 trở về sau thì không cần cung cấp gì thêm.
HOTLINE Tư vấn làm bằng 24/24h
SĐT: 0906 962 173
GMAIL: [email protected]
Mọi chi tiết xin liên hệ cho MR.PHONG qua:
sdt HOTLINE 0906962173 hoặc gởi mail qua hộp thư
Gmail: [email protected] .
Chúng tôi là một trong những cơ sở làm bằng đại học tại tphcm có uy tín và sản phẩm với chất lượng bằng đại học phôi thật 100% của bộ GD&DT , tem 7 màu chống hàng giả.....tất cả các sản phẩm như: làm bằng đại học, lam bang cao dang, làm bằng trung cấp, làm bằng cấp 3 và các loại chứng chỉ tin học, ngoại ngữ ABC, Toeic.....v.v.v.......đều là phôi tem thật của bộ GD&DT ban hành.
Giáo dục đại học là gì?
Giáo dục đại học bao gồm các hình thức giáo dục diễn ra ở các cơ sở học tập bậc sau trung học, cuối khóa học thường được trao văn bằng học thuật hoặc cấp chứng chỉ. Các cơ sở giáo dục đại học không chỉ bao gồm các trường đại học và viện đại học mà còn các trường chuyên nghiệp, trường sư phạm, trường cao đẳng, trường đại học công lập và tư thục hệ hai năm, và viện kỹ thuật. Điều kiện nhập học căn bản đối với hầu hết các cơ sở giáo dục đại học là phải hoàn thành giáo dục trung học, và tuổi nhập học thông thường là khoảng 18 tuổi.
Giáo dục đại học bao gồm các hoạt động giảng dạy, nghiên cứu, thực tập (như trong các trường y khoa và nha khoa), và phụng sự xã hội của các cơ sở giáo dục đại học. Các hình thức giáo dục đại học bao gồm: giáo dục tổng quát (general education), thường bao gồm đáng kể những yếu tố lý thuyết và trừu tượng cùng với những khía cạnh ứng dụng; giáo dục chú trọng đến các ngành khai phóng (liberal arts education), bao gồm các ngành nhân văn, khoa học, nghệ thuật; giáo dục mang tính huấn nghệ (vocational education), kết hợp cả việc giảng dạy lý thuyết lẫn những kỹ năng thực hành; giáo dục chuyên nghiệp (professional education), như trong các ngành kiến trúc, kinh doanh, luật, y khoa, v.v...
Ở nhiều quốc gia phát triển, có tới 50 phần trăm dân số theo học trong các cơ sở giáo dục đại học. Giáo dục đại học do đó rất quan trọng đối với kinh tế quốc gia, với tư cách là một ngành kinh tế và là nơi giáo dục và đào tạo nhân lực cho phần còn lại của nền kinh tế. Những người theo học đại học thường kiếm được mức lương cao hơn và ít có khả năng bị thất nghiệp hơn so với những người có học vấn thấp hơn.
Các chính thể độc lập ở Việt Nam từ thế kỷ 20 nói chung đều nhấn mạnh đến công tác giáo dục và quyền được giáo dục của người dân, mặc dù triết lý giáo dục, mục tiêu giáo dục, và cách tổ chức thực hiện có khác nhau.
Điều này thể hiện trong các tuyên bố của chính phủ Trần Trọng Kim thời Đế quốc Việt Nam,và trong các bản hiến pháp của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1946 và 1959), Việt Nam Cộng hòa (1956 và 1967), và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1980 và 1992). Riêng Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa còn nói rõ "nền giáo dục đại học được tự trị."
Năm 1975, sau chiến tranh, tất cả các cơ sở giáo dục đại học tư thục từng hoạt động ở miền Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa bị giải thể, các cơ sở giáo dục đại học công lập bị giải thể hoặc bị chia ra hay sắp xếp lại theo mô hình phân tán ngành học của Liên Xô; quyền tự trị đại học bị bãi bỏ.
Giáo dục Việt Nam dưới các chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, gồm cả giáo dục đại học, bị chính trị hóa, và hoàn toàn nằm dưới sự quản lý của nhà nước và Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều 36 Hiến pháp Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1992) quy định "nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử và hệ thống văn bằng.
Giáo dục đại học Việt Nam ở miền Bắc trước 1975 và ở cả nước sau 1975 tuân theo mô hình bao cấp giống như ở các nước xã hội chủ nghĩa khác. Hàng năm nhà nước phân bổ chỉ tiêu tuyển sinh cho các cơ sở giáo dục đại học, căn cứ vào tính toán nhu cầu của các cơ quan và các địa phương.
Căn cứ vào chỉ tiêu đó, ngân sách được phân bổ cho các bộ chủ quản, rồi các bộ rót tiền xuống cho các cơ sở giáo dục do mình quản lý. Sinh viên ra trường được nhà nước phân công công việc.
Tình hình thay đổi kể từ năm 1987, khi những lĩnh vực trước đây thuộc khu vực công bắt đầu do "các thành phần kinh tế" khác đảm trách; biên chế không còn nhu cầu và sinh viên ra trường không có việc làm vì không còn được phân công về các cơ quan nhà nước. Điều này đã dẫn đến việc các cơ sở giáo dục đại học có nguy cơ tan rã, do "sinh viên không muốn học, thầy cô không muốn dạy".
Mùa hè năm 1987, Bộ Đại học và Trung học Chuyên nghiệp triệu tập cáchiệu trưởng và bí thư Đảng ủy các trường đại học về dự một hội nghị ở Nha Trang. Hội nghị đã thảo luận kế hoạch cải cách bao gồm bốn tiền đề đào tạo: Đào tạo không chỉ cho các cơ quan nhà nước mà còn cho cả các thành phần kinh tế; đào tạo theo dự báo về yêu cầu nhân lực trong tương lai; đào tạo phục vụ nhu cầu học tập của người dân, không kèm trách nhiệm phân công, sinh viên tự tìm việc làm; đào tạo đa dạng, có cả những loại hình đào tạo phi chính quy, không chỉ bằng ngân sách nhà nước mà còn thu học phí. Cũng trong thời kỳ này, chính quyền Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam bắt đầu sửa đổi chính sách phân loại "13 hạng thanh niên" trong tuyển sinh.
Giáo dục đại học Việt Nam trải qua chuyển biến lớn vào đầu thập niên 1990 với sự ra đời của loại hình cơ sở giáo dục đại học được gọi là "đại học",gấn giống mô hình viện đại học hay university; mỗi "đại học" được thành lập trên cơ sở sáp nhập một số trường đại học đơn ngành đơn lĩnh vực. Ngày 18 tháng 6 năm 2012, Quốc hội lần đầu tiên thông qua Luật Giáo dục Đại học, đưa ra "quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ sở giáo dục đại học, hoạt động đào tạo, hoạt động khoa học và công nghệ, hoạt động hợp tác quốc tế, bảo đảm chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục đại học, giảng viên, người học, tài chính, tài sản của cơ sở giáo dục đại học và quản lý nhà nước về giáo dục đại học.
Tình trạng giáo dục hiện thời
Theo TS Phạm Thị Ly (ĐH Quốc gia TP.HCM), mặc dù tỉ lệ sinh viên vào ĐH còn thấp, đậu cử nhân ra trường vẫn thất nghiệp.
Tuy nhiên, mặc dù nhiều cử nhân thất nghiệp, các doanh nghiệp vẫn thiếu người. Điều này cho thấy đang có một khoảng cách khá xa giữa những gì các trường đang dạy và những gì xã hội thật sự cần. Cử nhân thất nghiệp do nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến chất lượng đào tạo có vấn đề, và do một nguyên nhân sâu xa hơn: chính sách sử dụng người tài. Việc số người vào đại học tuy ít (so với các nước khu vực, Số liệu thống kê tại VN cho thấy chỉ có khoảng 24% thanh niên từ 18 - 24 tuổi được tiếp cận giáo dục ĐH, trong khi con số này ở những nước như Thái Lan, Malaysia là 50 - 60%.) mà lại còn giảm là do việc có những người học hành không ra gì vẫn có cương vị cao trong xã hội đã phá hủy hết động lực học tập của người trẻ. Ngoài ra, học hộ, thi thuê, bằng giả, cũng là những thứ đã phá tan giá trị của tấm bằng đại học.
Mô hình các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam
Danh sách các cơ sở giáo dục đại học tại Việt Nam
Các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam có các tên gọi: trường đại học, trường đại học bách khoa, trường đại học tổng hợp, trường đại học cộng đồng, viện đại học, viện đại học bách khoa, đại học, đại học quốc gia, học viện, nhạc viện, trường cao đẳng, trường cao đẳng cộng đồng, v.v... Trong ngôn ngữ hàng ngày, "trường đại học" và "viện đại học" thường được gọi ngắn gọn hay thân mật là "đại học", mặc dù "đại học" là một loại hình cơ sở riêng biệt; về những nghĩa khác của "đại học",
Có nên làm bằng đại học giả hay không?
Trước tiên chúng tôi xin đặc biệt giới thiệu đên các bạn có nhu cầu và đang quan tâm đến vấn đề làm bằng đại học giả về chất liệu phôi thật, tem 7 màu có cánh của BGD, độ uy tín của cơ sở làm bằng đại học www.lambangdaihoc247.com có đảm bảo không? Khi cầm tấm bằng đại học giả của chúng tôi làm ra thì có thể nhận ra được giữa bằng thật và bằng giả ra sao không?
Xin cam kết với các bạn rằng chúng tôi cam kết đúng chất lượng phôi thật 100%, tem 7 màu có cánh của BGD hiện hành, bằng mắt thường không thể nào phân biệt được, giữa bằng đại học thật và bằng đại học giả của chúng tôi làm ra chỉ khác nhau ở điểm là bằng đại học thật thì có hồ sơ gốc lưu tại trường còn bằng giả thì không có hồ sơ lưu (thực tế: thì chỉ đi học mới có hồ sơ gốc tại trường).
Chúng tôi có các dịch vụ lam bang dai học như sau:
Làm bằng Đại Học Quốc Gia (ĐH Bách Khoa)
Làm bằng Đại Học Chính Quy (ĐH Tại Chức)
Làm bằng Cao Đẳng (CĐ Liên Thông)
Làm bằng Trung cấp (TC Nghề)
Làm bằng THPT (cấp III)
Làm bằngTHPT (cấp III)
Làm Chứng chỉ TOEIC quốc tế
Làm Chứng chỉ Ngoại Ngữ (A,B,C)
Chứng chỉ Tin Học trình độ (A,B,C)
Giấy chứng nhận tốt nghiệp tạm thời
Xác nhận sinh viên hoãn nghĩa vụ
Bảng điểm các trường
Ngoài ra dịch vụ lam bang dai hoc còn làm các chứng chỉ và nhiều văn bằng khác:
– Nếu bạn muốn làm bằng Toeic thì bạn cần cung cấp cho chúng tôi số Chứng minh nhân dân.
– Những tấm bằng từ trước năm 2009 thì nên lưu ý : Cần cung cấp thêm 1 tấm ảnh thẻ 3×4 thời điểm năm tốt nghiệp.
– Những tấm bằng từ năm 2010 trở về sau thì không cần cung cấp gì thêm.
HOTLINE Tư vấn làm bằng 24/24h
SĐT: 0906 962 173
GMAIL: [email protected]